Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

Nhà giáo trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông

GD&TĐ - TS Nguyễn Văn Huấn - Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Bến Tre cho biết, Sở GD&ĐT Bến Tre vừa tổ chức một hội thảo khá công phu với chủ đề: Nhà giáo Bến Tre trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Hội thảo đã đưa ra nhiều giải pháp cho đổi mới giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh. Các giải pháp được đưa ra bao gồm:
Nâng cao nhận thức; tập trung đầu tư cho đội ngũ; đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, phương thức GD&ĐT; đổi mới căn bản hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá; điều chỉnh quy hoạch mạng lưới GD&ĐT; đổi mới hệ thống giáo dục; đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục.
Tập trung đầu tư cho đội ngũ
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Do vậy để triển khai thành công việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo thì cần phải chọn giải pháp đột phá trước tiên là tập trung đầu tư cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Để thực hiện được yêu cầu trên, ngành giáo dục và đào tạo cần phải thực hiện các biện pháp rà soát, đánh giá năng lực thực tiễn, cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên toàn ngành giáo dục và đào tạo để có kế hoạch bố trí, sắp xếp phù hợp và đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Nhiều báo cáo tham luận cũng lưu ý là cần phải chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, lối sống, tác phong của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;
Cần phải bảo đảm chuẩn, chất của cán bộ quản lý giáo dục; bảo đảm trình độ chuyên môn, chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên thì mới có thể đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo.
Bản thân nhà giáo cũng phải tự đổi mới, tích cực tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của đổi mới giáo dục trong thời gian tới.
Nhiều tham luận đề xuất cần phải có chế độ chính sách, đặc biệt là chính sách về lương, thưởng, phát triển chuyên môn, đánh giá, đãi ngộ phù hợp để tạo động lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Do vậy, ngành giáo dục và đào tạo cần tiếp tục thực hiện đầy đủ và kịp thời các chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục và đào tạo; kịp thời kiến nghị bổ sung, điều chỉnh những chế độ, chính sách còn bất hợp lý hiện nay.
Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, phương thức GD&ĐT
Theo TS Nguyễn Văn Huấn, các báo cáo tham luận nhấn mạnh cần phải chủ động, tích cực thực hiện tốt các hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ GD&ĐT về đổi mới chương trình, sách giáo khoa nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học.
Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, giá trị sống, kỹ năng sống, ý thức pháp luật, ý thức công dân, lịch sử, địa lý địa phương, giáo dục thể chất và hướng nghiệp để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, hình thành phẩm chất cho học sinh.
Trong giáo dục, tập trung vào những giá trị văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cần phải đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học bằng cách áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực, tăng cường các hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống để phát triển năng lực cá nhân của người học.
Đổi mới căn bản hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá
Nhiều báo cáo tham luận lưu ý ngành giáo dục và đào tạo kịp thời tham mưu thực hiện khi Bộ GD&ĐT có chủ trương đổi mới phương thức thi công nhận tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng.
Triển khai đổi mới phương pháp kiểm tra, thi, đánh giá người học ngay trong quá trình và kết quả từng giai đoạn giáo dục, đào tạo nhằm kịp thời điều chỉnh, nâng cao hiệu quả hoạt động dạy và học ở các cấp học và trình độ đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất người học.
Cần phải tổ chức các kỳ thi, kiểm tra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế, đảm bảo khách quan, trung thực, phản ánh đúng chất lượng và tác động tích cực đến việc dạy - học; khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục.
Điều chỉnh quy hoạch mạng lưới GD&ĐT
Công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới cũng được các đại biểu quan tâm.
Cần phải tập trung công tác quy hoạch phát triển mạng lưới trường lớp cơ sở giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và phù hợp nhu cầu đào tạo nhân lực của địa phương;
Tăng cường đầu tư, xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị dạy học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, dạy học theo chương trình, sách giáo khoa mới;
Tăng cường thí nghiệm, thực hành, tập huấn giáo viên sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học hiện đại; chú trọng đầu tư xây dựng các công trình trường học vùng sâu, vùng xa.
Hải Bình

Tích cực, chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Bến Tre

                                                                                                                   TS Nguyễn Văn Huấn
Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bến Tre
 Ngày 27 tháng 01 năm 2014, Tỉnh ủy đã đề ra Chương trình hành động số 33-CTr/TU thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các nội dung của Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) và Chương trình hành động số 33-CTr/TU của Tỉnh ủy, ngành giáo dục và đào tạo đề ra các mục tiêu và giải pháp nhằm chủ động, tích cực triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI).
I. Các mục tiêu cụ thể
1. Giáo dục mầm non
Bảo đảm hệ thống cơ sở giáo dục mầm non đáp ứng đủ yêu cầu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi đến năm 2015; tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non vào năm 2015. Đến năm 2020, có 40% trường mầm non đạt chuẩn quốc gia.
Có 100% trẻ tại các cơ sở giáo dục mầm non được học Chương trình giáo dục mầm non mới. Thực hiện miễn học phí cho trẻ 5 tuổi học mẫu giáo trước năm 2020.
2. Giáo dục phổ thông
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hình thành cho học sinh ý thức và trách nhiệm cao trong học tập, có lối sống lành mạnh, có năng lực làm việc độc lập và hợp tác, có kỹ năng sống, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, có năng lực tự học, có khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học, biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Duy trì tỷ lệ học sinh bỏ học hằng năm cấp tiểu học dưới 0,1%, cấp trung học cơ sở dưới 1%, cấp trung học phổ thông dưới 3%; hiệu quả đào tạo cấp tiểu học trên 95%, cấp trung học cơ sở trên 85%, cấp trung học phổ thông trên 70%. Chuẩn bị các điều kiện đáp ứng được yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông từ sau 2015 theo lộ trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương; tiến tới thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020; có 45% trường tiểu học, 50% trường trung học cơ sở, 70% trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia; đảm bảo bố trí đủ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên ở các cấp học; có 100% giáo viên tiểu học và trung học cơ sở có trình độ đại học, trên 20% giáo viên trung học phổ thông có trình độ sau đại học.
3. Giáo dục thường xuyên
Phát triển các cơ sở giáo dục thường xuyên với các hình thức hoạt động linh hoạt, có cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu học tập, nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống của người lao động.
Đến năm 2020, duy trì trên 99% dân số trong độ tuổi (từ 15-60 tuổi) biết chữ; trên 90% số người mới biết chữ tiếp tục tham gia học tập và không mù chữ trở lại; trên 80% học viên được tham gia chương trình giáo dục kỹ năng sống; 50% trung tâm giáo dục thường xuyên huyện, thành phố đạt chuẩn.
4. Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học
Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, có cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo đáp ứng xu thế phát triển kinh tế của địa phương và của đất nước.
Đến năm 2020, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có đủ khả năng tiếp nhận 30% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở; đảm bảo đa số sinh viên, học sinh tốt nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật của các đơn vị, cơ quan sử dụng lao động.
II. Những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
1. Nâng cao nhận thức trong toàn ngành về chủ trương của Đảng đối với việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo
Ngành giáo dục và đào tạo tổ chức triển khai, quán triệt sâu rộng Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) và các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong Chương trình hành động số 33-CTr/TU ngày 27/01/2014 của Tỉnh ủy nhằm làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của từng cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên toàn ngành về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; quan điểm của Đảng coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Kịp thời tham mưu Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, những vấn đề về giáo dục và đào tạo phù hợp sự phát triển của địa phương trong giai đoạn mới.
Tăng cường tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền, phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể quan tâm chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo; thống nhất nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục; gia đình có trách nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho con em mình nhằm tạo sự đồng thuận cao và huy động sự tham gia của toàn xã hội vào công cuộc đổi mới và phát triển giáo dục.
2. Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục và đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
Chủ động, tích cực thực hiện tốt các hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới chương trình, sách giáo khoa nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật, ý thức công dân, lịch sử, địa lý địa phương; tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp; tổ chức dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học. Trong giáo dục, cần tập trung vào những giá trị văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chỉ đạo các cơ sở giáo dục đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, tích cực. Tổ chức các hình thức dạy học đa dạng gắn với các di sản văn hóa - lịch sử, xã hội ở địa phương; gắn hoạt động dạy học với ứng dụng công nghệ thông tin, nghiên cứu khoa học. Tăng cường sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục học sinh.
Tích cực, chủ động tham mưu chuẩn bị các điều kiện để thực hiện tốt việc đổi mới chương trình, nội dung giáo dục ở các cấp, bậc học từ sau năm 2015.
3. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo bảo đảm trung thực, khách quan
Ngành giáo dục và đào tạo kịp thời tham mưu thực hiện khi Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông, thực hiện đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp, tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng phù hợp tình hình địa phương, giảm áp lực, ít tốn kém cho xã hội.
Tổ chc các k thi an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế, đảm bảo khách quan, phn ánh đúng chất lượng, tác động tích cc đến vic dy - hc.
Thc hin tt vic kiểm định cht lượng giáo dc, trong đó tăng cường trin khai t đánh giá và nhất là vic đánh giá ngoài các cơ sở giáo dc mm non, ph thông, giáo dục thường xuyên; chú trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở giáo dục ngoài công lập, các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài để kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Xây dựng chương trình, giáo trình và tổ chức đào tạo theo hướng chú trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế; coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục và ngành nghề đào tạo.
4. Tiếp tục điều chỉnh quy hoạch phát triển mạng lưới giáo dục và đào tạo của tỉnh theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Tiếp tục thực hiện Đề án kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên; tập trung giải quyết dứt điểm tình trạng trường học xuống cấp nặng, phòng học tạm bợ ở các điểm lẻ. Tập trung thực hiện Kế hoạch số 973/KH-UBND ngày 16/3/2011 về thực hiện Đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2010-2015, Kế hoạch số 159/KH-UBND ngày 13/01/2011 về xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia, Kế hoạch số 4799/KH-UBND ngày 27/10/2011 về Phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020, Kế hoạch số 3085/KH-UBND ngày 09/7/2012 về phát triển các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật - tổng hợp hướng nghiệp tỉnh giai đoạn 2012-2015 và định hướng đến năm 2020, Kế hoạch số 5412/KH-UBND  ngày 08/11/2013 về xây dựng xã hội học tập tỉnh Bến Tre giai đoạn 2013 – 2020. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường Trung học phổ thông chuyên Bến Tre để kịp đưa vào sử dụng trong năm 2014.
5. Chú trọng đổi mới công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục và đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng
 Các cơ sở giáo dục tiếp tục thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về các khoản thu, chi trong trường học, việc thực hiện Thông tư  số 09/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về quy chế công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Thực hiện nghiêm Quyết định số 17/2013/QĐ-UBND ngày 12/7/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh quy định về dạy thêm, học thêm trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
Đẩy mạnh cải cách hành chính nhất là thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính tại các cơ quan quản lý, cơ sở giáo dục và đào tạo. Thường xuyên rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo thuận lợi cho người học. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục và đào tạo; nhà giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia đánh giá cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Xây dựng hệ thống vị trí việc làm và thực hiện quản lý nhân sự  theo vị trí việc làm tại các trường học, cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý giáo dục trên địa bản tỉnh.
Tăng cường quản lý giáo viên trong việc thực hiện chương trình dạy học; thực hiện quy định dạy thêm học thêm. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giảng dạy, học tập để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
Tăng cường công tác thanh tra thường xuyên, định kỳ; thanh tra các kỳ thi; kiểm tra, chấn chỉnh các tiêu cực, sai phạm trong hoạt động giáo dục nhất là trình trạng dạy thêm, học thêm, liên thông, liên kết đào tạo không đúng quy định.
6. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo
Chất lượng và hiệu quả giáo dục do nhiều yếu tố làm nên như cơ sở vật chất và trang thiết bị, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, sự phối hợp các môi trường giáo dục… Tuy nhiên, chính đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đóng vai trò quyết định chất lượng giáo dục, trong khi các yếu tố khác góp phần làm nên chất lượng giáo dục.
Do vậy để triển khai thành công việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo thì cần phải chọn giải pháp đột phá là tập trung đầu tư cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên.
Vì vậy trong thời gian tới, ngành giáo dục và đào tạo tiếp tục triển khai thực hiện Kế hoạch số 2180/KH-UBND  ngày 01/6/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thực hiện các biện pháp rà soát, đánh giá năng lực thực tiễn, cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên toàn ngành giáo dục và đào tạo để có kế hoạch bố trí, sắp xếp phù hợp. Kịp thời bổ sung, điều chuyển hợp lý cán bộ quản lý và giáo viên ở những vùng khó khăn. Chú trọng nâng cao đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất, đạo đức lối sống, tác phong của nhà giáo, trình độ chuyên môn, chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên bảo đảm đủ số lượng, đạt chuẩn nghề nghiệp, đồng bộ về cơ cấu và một bộ phận trên chuẩn. Nâng cao trình độ lý luận chính trị, phẩm chất, đạo đức lối sống và chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục trong giai đoạn mới. Tiếp tục bồi dưỡng nâng chuẩn đào tạo cho giáo viên các cấp học; tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học và trung học cơ sở đạt trình độ từ đại học trở lên; bồi dưỡng về năng lực sư phạm cho giáo viên để có thể đáp ứng được yêu cầu giảng dạy theo chương trình, sách giáo khoa mới sau năm 2015.
Tiếp tục thực hiện đầy đủ và kịp thời các chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục và đào tạo; kịp thời kiến nghị bổ sung, điều chỉnh những chế độ, chính sách còn bất hợp lý hiện nay. Tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm giữa các cơ sở giáo dục trong và ngoài tỉnh, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo; đồng thời, xây dựng lực lượng giáo viên, giảng viên cốt cán, đáp ứng nhiệm vụ phát triển giáo dục trong giai đoạn mới; tạo điều kiện để chuyên gia quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy ở các cơ sở giáo dục, đào tạo trong tỉnh.
Tăng cường công tác xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong trường học thật sự vững mạnh; đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”; qua đó, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, trách nhiệm, đạo đức, lối sống của cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh.
Miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết  đưa ra khỏi ngành đối với người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
7. Thực hiện đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo
Ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng, phát triển các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập để bảo đảm hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục; khuyến khích phát triển các loại hình giáo dục ngoài công lập đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục có chất lượng.
Thực hiện chính sách hỗ trợ đối với các đối tượng chính sách và quan tâm cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài, giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi. Tôn vinh, khen thưởng xứng đáng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh.
Tích cực huy động mọi nguồn lực tham gia phát triển giáo dục, đào tạo. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có uy tín thành lập, liên doanh, liên kết đầu tư cơ sở vật chất, liên kết đào tạo, chuyển giao công nghệ cho các trường, các cơ sở giáo dục ở các ngành học, cấp học.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục, đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Để thực hiện thành công việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục và đào tạo đóng vai trò chủ công. Sự lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp, hỗ trợ của các ban, ngành, đoàn thể, sự tham gia của toàn xã hội đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu. Do vậy việc quán triệt sâu rộng Nghị quyết 29-NQ/TW để nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân về định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Đảng sẽ góp phần làm nên thành công của việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo lần này./.

Bến Tre qua 10 năm thực hiện chỉ thị của Trung ương về xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục

                                         Tiến sĩ Nguyễn Văn Huấn
                   Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Bến Tre
 
Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ, coi công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, là mặt trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng ta, là nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng.
Đối với giáo dục và đào tạo, Đảng ta luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng. Việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục luôn được Đảng ta quan tâm lãnh đạo, thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng trong thời gian qua.
Để xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004. Tỉnh ủy Bến Tre đã có Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị này. Ủy ban nhân dân tỉnh cũng đã ban hành kế hoạch 2445/KH-UBND ngày 31/5/2005 về nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010 và Kế hoạch 2180/KH-UBND ngày 01/6/2011 về nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2011-2015.
Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW, chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục của tỉnh Bến Tre có nhiều chuyển biến tích cực. Đội ngũ này cơ bản được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, đạo đức nghề nghiệp; qua đó, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.  
Hiện nay toàn ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Bến Tre có 1.286 cán bộ quản lý, 13.444 giáo viên và 1.897 nhân viên. Tỉ lệ cán bộ quản lý ở các cơ sở giáo dục trong tỉnh đạt chuẩn về lý luận chính trị, nghiệp vụ quản lý ngày càng cao. Đội ngũ nhà giáo có trình độ đào tạo chuyên môn trên chuẩn cũng không ngừng tăng lên. Tỷ lệ đảng viên của toàn ngành hiện nay đạt 51,2%, tăng 24,5% so với năm học 2004-2005.
Đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục:
Về trình độ chuyên môn: Đội ngũ cán bộ quản lý cấp mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đạt chuẩn 100%. Tỉ lệ cán bộ quản lý trên chuẩn đào tạo ở cấp mầm non là 95,2%, tăng so với năm học 2004-2005 là 75,7%; cấp tiểu học là 95,8%, tăng so với năm học 2004-2005 là 59,5%; cấp trung học cơ sở 95,8%, tăng so với năm học 2004-2005 là 30,2%; cấp trung học phổ thông 16,8%, tăng so với năm học 2004-2005 là 13,9%.
Về trình độ quản lý giáo dục: Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục được bồi dưỡng đạt tỷ lệ 79,9%, tăng so với năm học 2004-2005 là 32,7%.
Về trình độ lý luận chính trị: Cán bộ quản lý giáo dục đã được bồi dưỡng đạt tỉ lệ 69,8%, tăng so với năm học 2004-2005 là 48,2%.
Toàn ngành 54,9% cán bộ quản lý là nữ. Ở cấp học mầm non, cán bộ quản lý là nữ chiếm tỉ lệ 100%. Tuy nhiên càng lên cao, tỉ lệ cán bộ quản lý là nữ giảm dần: cấp tiểu học có 43,14% cán bộ quản lý là nữ; cấp trung học cơ sở có 37,02%; cấp trung học phổ thông có 25,78%; ở cơ quan quản lý cấp phòng, sở giáo dục và đào tạo, có 20,68%. Cán bộ quản lý giáo dục có tuổi dưới 40 chiếm tỉ lệ 29,05%.
Đối với đội ngũ nhà giáo:
Về trỉnh độ đào tạo, giáo viên mầm non đạt chuẩn 100%, tăng so với năm học 2004-2005 là 12,8%, trong đó trên chuẩn 80,2 %, tăng so với năm học 2004-2005 là 76,4%. Giáo viên tiểu học đạt chuẩn 100% , tăng so với năm học 2004-2005 là 5,1%, trong đó trên chuẩn 86,1%, tăng so với năm học 2004-2005 là 69,9%. Giáo viên trung học cơ sở đạt chuẩn 100%, tăng so với năm học 2004-2005 là 2,4%, trong đó trên chuẩn 77,0%, tăng so với năm học 2004 - 2005 là 58,6%. Giáo viên trung học phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên đạt chuẩn 99,9% tăng so với năm học 2004-2005 là 10,8%, trong đó trên chuẩn 10,3%, tăng so với năm học 2004-2005 là 10,0%; dưới chuẩn 0,1%, giảm so với năm học 2004-2005 10,8%.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý và giảng dạy theo yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo, một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên còn chậm đổi mới, chưa sáng tạo trong việc vận dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho công tác quản lý và giảng dạy. Một số giáo viên giảng dạy còn nặng về lý thuyết, còn lúng túng trong việc đổi mới phương pháp dạy học; chưa tự giác học tập, nghiên cứu, chưa quan tâm khai thác triệt để trang thiết bị dạy học hiện đại. Một số cán bộ quản lý và giáo viên còn ngại khó, hạn chế về năng lực và tầm nhìn.
Do vậy để triển khai thành công việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) thì cần phải chọn giải pháp đột phá là đầu tư xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, tập trung vào một số yêu cầu sau:
Tích cực triển khai thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với các cuộc vận động và phong trào thi đua lớn của ngành giáo dục và đào tạo như Cuộc vận động Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo, Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, qua đó giúp nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, viên chức ngành giáo dục và đào tạo về vị trí, trách nhiệm của mình trong công tác quản lý, giảng dạy trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.         
Thực hiện các biện pháp rà soát, đánh giá năng lực thực tiễn, cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên toàn ngành giáo dục và đào tạo để có kế hoạch bố trí, sắp xếp phù hợp và đào tạo, bồi dưỡng.  Chú trọng nâng cao tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, lối sống, tác phong của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; bảo đảm chuẩn, chất của cán bộ quản lý giáo dục; bảo đảm trình độ chuyên môn, chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên. Tiếp tục bồi dưỡng nâng chuẩn đào tạo cho giáo viên các cấp học, tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học và trung học cơ sở đạt trình độ từ đại học trở lên.
Bồi dưỡng về năng lực sư phạm cho giáo viên để có thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực cá nhân của người học, áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học; tăng cường các hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học và vận dụng kiến thức vào thực tế theo chương trình, sách giáo khoa mới kể từ năm học 2016-2017.
Tập trung bồi dưỡng cho cán bộ quản lý giáo dục năng lực quản lý về đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng hình thành năng lực và phẩm chất người học.  Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đương chức và dự bị, dự nguồn về lý luận chính trị, nghiệp vụ quản lý giáo dục; mạnh dạn chọn cán bộ nữ, trẻ đủ chuẩn, chất để bố trí làm cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục và thay thế số cán bộ không đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục trong thời gian tới.
Thực hiện tốt hơn nữa công tác nhận xét, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên hàng năm; từng bước nghiên cứu, đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ, qua đó tạo cơ sở cho việc bố trí, sử dụng tốt đội ngũ. Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa ngành giáo dục và đào tạo với các cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác cán bộ ở các cơ sở giáo dục.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục, qua đó giúp phát huy những mặt tích cực trong quản lý và dạy học; kịp thời uốn nắn, điều chỉnh những mặt hạn chế, góp phần xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, lành mạnh. 
Tiếp tục thực hiện đầy đủ và kịp thời các chế độ, chính sách đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; kịp thời kiến nghị bổ sung, điều chỉnh những chế độ, chính sách còn bất hợp lý hiện nay. Tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm giữa các cơ sở giáo dục trong và ngoài tỉnh, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo; đồng thời, xây dựng lực lượng giáo viên, giảng viên cốt cán, đáp ứng nhiệm vụ phát triển giáo dục trong giai đoạn mới.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục, quyết định sự thành công của việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo. Đối với tỉnh Bến Tre, việc tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là một nhiệm vụ, giải pháp quan trọng hàng đầu và được xem là giải pháp đột phá cho đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo tỉnh Bến Tre trong thời gian tới.
 
 

Nhà giáo Bến Tre trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông

                                                                                                        Tiến sĩ Nguyễn Văn Huấn
                                                    Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Bến Tre
      
Hôm nay, Hội Cựu giáo chức tỉnh phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo và Công đoàn Giáo dục tỉnh tổ chức Hội thảo giáo dục lần 4 với chủ đề “Nhà giáo Bến Tre trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông“.
Hội thảo là cơ hội để các nhà giáo của tỉnh nói lên những suy nghĩ, việc làm và những đề xuất của mình nhằm đổi mới giáo dục phổ thông tỉnh nhà theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Ngoài báo cáo đề dẫn, Hội thảo hôm nay nhận được 23 bài tham luận được in trong bộ Kỷ yếu Hội thảo, của các đại biểu đại diện cho các cấp quản lý giáo dục cấp Phòng, Sở GDĐT, lãnh đạo và giáo viên các trường phổ thông, đại diện các nhà giáo về hưu, nhìn vấn đề ở các góc độ khác nhau.
Có thể nói rằng các vấn đề được đề cập về chủ đề được trình bày trong Hội thảo hôm nay và trong Kỷ yếu Hội thảo là rất phong phú, đa dạng, là những chia sẻ quý báu mà những người đang làm công tác quản lý và giảng dạy thấy rằng sẽ rất có ích cho mình ở những vị trí khác nhau trong trong triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành TW Đảng.
Thay mặt cho Sở GDĐT và Ban Tổ chức Hội thảo, tôi xin khái quát một số vấn đề chung về các vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông tại tỉnh nhà theo tinh thần Nghị quyết 29 mà nhiều đại biểu đã đề cập trong Hội thảo hôm nay.
Về quan điểm của đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo, các đại biểu đã thống nhất các quan điểm như sau:
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục, đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học tập của nhân dân.
Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học, các giải pháp đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
Đổi mới căn bản và toàn diện không có nghĩa là làm lại tất cả, từ đầu mà cần vừa kế thừa, củng cố, phát huy các thành tựu, phát triển những nhân tố mới; đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế địa phương. Những hạn chế, thách thức của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc, có giải pháp hữu hiệu và lộ trình khắc phục, vượt qua để đưa sự nghiệp giáo dục tỉnh nhà lên tầm cao mới.
Về các giải pháp cho đổi mới giáo dục phổ thông của tỉnh nhà, các đại biểu đã đề cập nhiều vấn đề. Tựu trung có các vấn đề lớn như sau:
Vấn đề thứ nhất. Một số báo cáo tham luận lưu ý là cần phải  nâng cao nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của giáo dục và đào tạo và sự cần thiết, tầm quan trọng của việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo nhằm làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của từng cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; phải thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch.
Phải tăng cường sự lãnh đạo các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của các cấp chính quyền; phát huy sự phối hợp, hỗ trợ của các ban, ngành, đoàn thể các cấp đối với giáo dục và đào tạo; tăng cường trách nhiệm của gia đình trong việc phối hợp với nhà trường và xã hội để giáo dục nhân cách, lối sống cho con em mình,  từ đó tạo sự đồng thuận cao và huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội vào công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Vấn đề thứ hai. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, được nhiều báo cáo tham luận xem là giải pháp đột phá, đảm bảo nguồn lực để thực hiện yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tỉnh nhà
Nhiều báo cáo tham luận nhất trí rằng chính đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Do vậy để triển khai thành công việc đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo thì cần phải chọn giải pháp đột phá trước tiên là tập trung đầu tư cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Ngay trong báo cáo đề dẫn, đồng chí Chủ tịch Hội Cựu giáo chức tỉnh cũng đã khẳng định: Do đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có vai trò quyết định trong công cuộc đổi mới, nên chủ đề hội thảo lần này được chọn là: “Nhà giáo Bến Tre trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông tỉnh nhà.“
Để thực hiện được yêu cầu trên, ngành GDĐT cần phải thực hiện các biện pháp rà soát, đánh giá năng lực thực tiễn, cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên toàn ngành giáo dục và đào tạo để có kế hoạch bố trí, sắp xếp phù hợp và đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Nhiều báo cáo tham luận cũng lưu ý cần phải chú trọng nâng cao tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, lối sống, tác phong của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; cần phải bảo đảm chuẩn, chất của cán bộ quản lý giáo dục; bảo đảm trình độ chuyên môn, chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên thì mới có thể đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện về GDĐT.
Nhiều tham luận lưu ý phải có chế độ chính sách, đặc biệt là chính sách về lương, thưởng, phát triển chuyên môn, đánh giá, đãi ngộ phù hợp để tạo động lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục. Do vậy, ngành GDĐT cần tiếp tục thực hiện đầy đủ và kịp thời các chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên ngành giáo dục và đào tạo; kịp thời kiến nghị bổ sung, điều chỉnh những chế độ, chính sách còn bất hợp lý hiện nay.
Vấn đề thứ ba. Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, phương thức giáo dục và đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
Các báo cáo tham luận nhấn mạnh cần phải chủ động, tích cực thực hiện tốt các hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới chương trình, sách giáo khoa nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, giá trị sống, kỹ năng sống, ý thức pháp luật, ý thức công dân, lịch sử, địa lý địa phương, giáo dục thể chất và hướng nghiệp để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, hình thành phẩm chất cho học sinh. Trong giáo dục, tập trung vào những giá trị văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cần phải đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực cá nhân của người học, "coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh” như một báo cáo tham luận nhấn mạnh, áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực; tăng cường các hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học và vận dụng kiến thức vào thực tế.
Vấn đề thứ tư.  Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo bảo đảm trung thực, khách quan
Nhiều báo cáo tham luận lưu ý ngành giáo dục và đào tạo kịp thời tham mưu thực hiện khi Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương đổi mới phương thức thi công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng. Triển khai đổi mới phương pháp kiểm tra, thi, đánh giá người học ngay trong quá trình và kết quả từng giai đoạn giáo dục, đào tạo nhằm kịp thời điều chỉnh, nâng cao hiệu quả hoạt động dạy và họccác cấp học trình độ đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất người học.
Cần phải tổ chức các kỳ thi an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế, đảm bảo khách quan, phản ánh đúng chất lượng, tác động tích cực đến việc dạy - học; khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục như một đại biểu lưu ý trong báo cáo tham luận: Đừng chạy theo những thành tích ảo để đạt những danh hiệu thi đua hào nhoáng...“.
Vấn đề thứ năm. Tiếp tục điều chỉnh quy hoạch phát triển, sắp xếp, tổ chức lại mạng lưới và hệ thống giáo dục, đào tạo và dạy nghề của tỉnh; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ yêu cầu đổi mới
Công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới cũng được các đại biểu quan tâm. Cần phải tập trung công tác quy hoạch phát triển mạng lưới trường lớp cơ sở giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và phù hợp nhu cầu đào tạo nhân lực của địa phương; tăng cường đầu tư, xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị dạy học theo hướng chuẩn hóa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, dạy học theo chương trình, sách giáo khoa mới và tăng cường thí nghiệm, thực hành, tập huấn giáo viên sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học hiện đại; chú trọng đầu tư xây dựng các công trình trường học vùng sâu, vùng xa.
Vấn đề thứ sáu. Đổi mới quản lý về giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo
Nhiều báo cáo tham luận cũng đã đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới công tác quản lý, coi đổi mới quản lý là khâu đột phá: Cần tập trung vào khâu đột phá: thực hiện đổi mới quản lí giáo dục bảo đảm dân chủ thống nhất, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm”. Cần phải nâng cao năng lực quản lý ở cơ sở giáo dục, trường phổ thông về đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo chương trình, sách giáo khoa mới. Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành ở các cấp học và trình độ đào tạo; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra đối với các hoạt động giáo dục; quản lý tốt việc dạy thêm, học.
Vấn đề thứ bảy. Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Nhiều báo cáo lưu ý cần phải chú trọng tăng cường đầu tư, phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động các cơ sở giáo dục thường xuyên để xây dựng một hệ thống giáo dục mở, tạo điều kiện cho người dân được học mọi lúc, mọi nơi khi có nhu cầu, đẩy mạnh việc xây dựng xã hội học tập; trong đó, tập trung thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các trung tâm giáo dục thường xuyên trong việc liên kết đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp; đa dạng hóa các loại hình, phương thức đào tạo để đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh, đáp ứng tối đa nhu cầu học tập của người dân; đẩy mạnh triển khai dạy học ngoại ngữ, tin học ứng dụng ở các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm ngoại ngữ, tin học để đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân trong tỉnh phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng để góp phần xây dựng xã hội học tập ở cộng đồng dân cư địa phương
Vấn đề thứ tám. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội
Công tác đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục cũng được nhiều báo cáo tham luận quan tâm. Cần phải tập trung huy động mọi nguồn lực phát triển giáo dục và đào tạo. Tăng cường phát huy vai trò các đoàn thể, hội khuyến học, hội cựu giáo chức...; nâng cao vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục đạo đức học sinh, kéo giảm tỷ lệ bỏ học, lưu ban để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Trên đây là khái quát một số vấn đề lớn về những suy nghĩ và những đề xuất trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông của tỉnh nhà được các đại biểu thể hiện qua các tham luận trong kỉ yếu và qua các ý kiến phát biểu trong Hội thảo hôm nay. Hội thảo hôm nay cho chúng ta những ý kiến rất phong phú, đa dạng về những hiến kế của nhà giáo trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông mà chắc chắn việc khái quát qua báo cáo này cũng chưa đầy đủ hết ý kiến của các đại biểu muốn gửi gắm qua Hội thảo này.
Thay mặt cho Sở GDĐT, tôi xin cám ơn Hội Cựu giáo chức tỉnh và Công đoàn giáo dục tỉnh đã phối hợp với Sở GDĐT tổ chức Hội thảo này;
Thay mặt Ban Tổ chức Hội thảo, xin cám ơn tất cả các đại biểu đã dành thời gian đến dự Hội thảo, tham gia Hội thảo qua những tham luận và những ý kiến phát biểu trong thảo luận, góp phần làm cho Hội thảo đạt kết quả tốt đẹp.
Sau cùng, xin chúc sức khỏe tất cả các vị đại biểu tham dự Hội thảo và thay mặt cho Ban Tổ chức, xin tuyên bố bế mạc Hội thảo.